Bài 1:Thủy điện: Cầm hơi!
Thiếu điện không những làm đảo lộn đời sống
sinh hoạt mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất kinh doanh của cả nước, đặc
biệt là vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, đầu tàu kinh tế của cả nước. Tại kỳ
họp Quốc hội khóa 12 vừa kết thúc, Chính phủ đã chỉ đạo các ngành phải đảm bảo
điện cho sản xuất và sinh hoạt trong năm 2011. Tuy nhiên, từ thực tế của các
nguồn cung cấp điện ở phía Nam hiện nay, “thảm họa” thiếu điện khó tránh
khỏi.
Cứ ngỡ dải đất miền Trung ngụp lặn trong lũ
lụt dồn dập vào tháng 10 và 11 vừa qua thì các hồ thủy điện khu vực miền Đông
Nam bộ và Tây Nguyên sẽ đầy nước, thế nhưng thực tế “vắt” không ra giọt nước.
Đáng lưu ý, những khu vực này lại tập trung chủ yếu các hồ thủy điện có quy mô
công suất điện rất lớn.
|
Hồ thủy điện Hàm Thuận kiệt
nước, trơ đáy sau những tháng tích nước qua mùa mưa 2010. Ảnh: Lạc
Phong |
Trơ đáy... giữa mùa
mưa
Thủy điện Trị An nằm cuối nguồn sông Đồng Nai,
gồm 4 tổ máy với công suất 360MW, sản lượng đạt gần 2 tỷ kWh/năm, từng là niềm
tự hào một thời vì nguồn cung cấp điện lớn nhất cho khu vực phía Nam nói chung
và TPHCM nói riêng. Không chỉ ổn định trong sinh hoạt cho thành phố đông dân,
đặc biệt còn đưa nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng. Dường như giá trị đó đã
lùi vào quá vãng. Còn giờ đây…
Cầu La Ngà (Định Quán, Đồng Nai) như hàn thử biểu
của thủy điện Trị An, thấy mặt sông mênh mông nước, bè cá nổi dập dềnh, chắc
chắn thủy điện no nước, hoặc ngược lại.Những ngày cuối
tháng 10 vừa qua, dù có những cơn mưa rải rác vào chiều tối, song mặt sông La
Ngà gần như bất động. Những người dân sống trong dãy nhà nổi dọc hai bên mép
sông trước đây nhìn sang không thấy mặt nhau, giờ có thể đối khẩu thoải
mái.
“Chưa năm nào nước sông thấp như thế. Lòng sông
bị thu hẹp vì cột nước nước xuống gần chục mét. Ông Nguyễn Văn Bính, một nông
dân sống bằng nghề sông nước trên sông La Ngà nhận xét.
Bên trong lòng hồ thủy điện Trị An, những khối bê
tông khổng lồ được xây dựng bao quanh bờ hồ để chặn nước ở khu vực hạ lưu thay
vì chìm ngập trong nước, nay lại trồi lên nằm trơ phơi nắng. Váng nước vàng
choét bám lại trên các khối bê tông sau khi nước rút kéo dài cả chục mét. Đập
chắn nước của Nhà máy Thủy điện Trị An vì thế cũng lộ ra cao chót vót. Hai giàn
trục đóng mở nước phục vụ 4 tổ máy phát điện khổng lồ, nằm im lìm. Mưa ít, lưu lượng nước
đầu nguồn về giảm liên tục đã khiến thủy điện Trị An không thể tích đủ nước để
chạy máy cho mùa tới.
Theo Phó Giám đốc Nhà máy Thủy điện Trị An Võ Tấn
Nhẫn, tính đến thời điểm hiện nay lưu lượng nước về sụt thê thảm, chỉ ở mức
400/880m³/s, giảm hơn 50% so với các năm. Mực nước trong lòng hồ thủy điện Trị
An đang ở mức báo động 54,5m, cách mực nước chết chưa tới 5m!
Cách TPHCM chừng 200km, nằm vắt ngang giữa tỉnh
Đồng Nai và Bình Thuận, trên lưu vực sông La Ngà thuộc hệ thống sông Đồng Nai,
thủy điện Hàm Thuận gồm 2 tổ máy với công suất 300MW, từ đầu mùa hè đến nay nằm
trơ đáy dẫu mùa mưa sắp kết thúc.Cả lòng hồ thủy điện cỏ
mọc xanh um, lác đác sót lại vài vũng nước nhỏ, đỏ ngầu.
Toàn nhà máy im lìm, nước ngừng chảy. Tận dụng
mực nước hồ xuống thấp, một số người dân dựng bè bắt cá, trồng hoa màu trên
những ụ đất giữa lòng hồ đã trồi lên lâu ngày.
Phó Giám đốc Công ty Thủy điện Đa Nhim-Hàm
Thuận-Đa Mi Lê Văn Quang rầu rĩ nói: “Tính đến thời điểm này có thể khẳng định,
việc tích nước tại thủy điện Hàm Thuận đã hết hy vọng”. Theo quy luật, hàng năm
thời điểm thích hợp để tích nước khi có mưa nhiều thường bắt đầu từ tháng 8 đến
hết tháng 10, lúc đó nước đã về đầy hồ.
Nhưng đến nay, khu vực này gần như không có mưa,
trong khi lưu lượng nước đầu nguồn chảy về lòng hồ chỉ ở mức 70/150m³/s, chưa
tới 50% lưu lượng bình quân hàng năm. Do đó, mực nước cao trình tại hồ Hàm Thuận
chỉ ở mức 584m, thiếu hơn 21m mới tích đủ mực nước theo kế hoạch cho lòng hồ
chạy máy năm tới.
Bi đát hơn, cách Nhà máy Thủy điện Hàm Thuận 10
km về phía hạ lưu sông La Ngà, 2 tổ máy của Nhà máy Thủy điện Đa Mi với công
suất gần 200MW cũng hoàn toàn phụ thuộc vào thời gian chạy máy của thủy điện Hàm
Thuận. Nghĩa là thời gian thủy điện Hàm Thuận ngừng chạy máy để tích nước bao
lâu thì Đa Mi cũng “trùm mền” bấy lâu!
Cùng nằm trong hệ thống điện miền Nam, ngược lên
phía thượng nguồn nhánh sông Đồng Nai, Sông Bé, các Nhà máy thủy điện Thác Mơ,
Sông Pha, Suối Vàng… với công suất hơn 150MW cũng đang “hấp hối” vì lưu lượng
nước về hồ hụt khá lớn so với các năm, từ đó kéo theo sản lượng chắc chắn sẽ
giảm vào năm tới.
Gồng
gánh
Theo ông Lê Văn Quang, Phó Giám đốc Công ty Thủy
điện Đa Nhim-Hàm Thuận-Đa Mi, nước về hồ giảm mạnh nên từ đầu năm 2010 đến nay,
cả hai tổ máy của thủy điện Hàm Thuận chỉ chạy cầm chừng. Khi mực nước trong hồ
được tích cao vượt qua mực nước chết, công ty mới vận hành và chỉ chạy duy nhất
1 tổ máy, thời gian giao động từ 2 đến 4 giờ vào những giờ cao điểm.
Riêng chủ nhật, thứ bảy và thời gian còn lại của
những ngày thường các tổ máy phải ngừng hoạt động để chờ tích nước.
Hiện nay, với lượng nước hiện có trong hồ, nếu
chạy hết công suất của 2 tổ máy thì đúng một ngày là hết sạch nước. Kéo theo
việc cấp điện của thủy điện Đa Mi cũng tương tự. Đối với thủy điện Trị An, mực
nước hiện có trong hồ chỉ để dành cho 1 tổ máy vận hành vào giờ cao
điểm.
Niềm hy vọng còn lại thuộc về thủy điện Đa Nhim
có công suất 160MW và thủy điện Đại Ninh với công suất 300MW, đã tích đủ nước để
chạy máy. “Tuy nhiên, nếu chúng tôi chạy hết công suất, thì từ nay đến cuối năm
hết 50% lượng nước tại các hồ, lúc đó buộc phải dừng máy để dành nước cho mùa
khô”, Giám đốc Công ty Thủy điện Đại Ninh Võ Tăng Lý nói.
Thủy điện Đa Nhim với công suất 160MW, sản lượng
bình quân hàng năm đạt 500 triệu kWh, hiện vẫn xả lũ và có thể tích đủ nước cho
mùa khô năm sau. Tuy nhiên, nếu cộng sản lượng của hai nhà máy thủy điện này
lại, tính “hết ga” cũng chỉ đạt 900 triệu kWh, hụt mất 600 triệu kWh so với sản
lượng trung bình hàng năm.
|
Nhà máy nhiệt điện Cà Mau 1, 2
đang được bảo trì sửa chữa sau 1 năm hòa lưới điện quốc gia. Ảnh:
T.L. |
Lý do, thủy điện đã tích đủ nước cho mùa khô, nhưng do lưu
lượng nước thượng nguồn về hồ giảm mạnh nên không thể đạt sản lượng đề ra. Như
vậy, nguồn điện từ hai thủy điện đã tích đủ nước cũng như sự hoạt động “cầm hơi”
của các thủy điện thiếu nước liệu sẽ gồng gánh như thế nào cho mùa khô năm
sau?
Lạc Phong - Lương
Thiện
Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho biết,
trong tháng 12-2010, tình hình cung cấp điện vẫn tiếp tục khó khăn do một
số các nhà máy nhiệt điện than mới vận hành chưa tin cậy, một số tổ máy
nhiệt điện khác phải ngừng sửa chữa do quá thời hạn và bị sự
cố.
Để phấn đấu đảm bảo cấp điện ổn định cho sản
xuất và nhu cầu thiết yếu của xã hội, EVN yêu cầu các nhà máy thủy điện
khai thác theo lưu lượng nước về để đảm bảo tích nước ở mức cao nhất có
thể.
Theo đánh giá của EVN, trong tháng 11 vừa
qua, tuy một số hồ ở miền Trung và Tây Nguyên như Sông Hinh, Sông Ba Hạ,
Buôn Kuốp, Đại Ninh, Đa Nhim có lượng nước về vượt giá trị trung bình
nhiều năm và có xả nước, nhưng nước về các hồ thủy điện lớn vẫn thấp hơn
giá trị trung bình nhiều năm. Cụ thể, mực nước các hồ thủy điện lớn là Hòa
Bình, Tuyên Quang, Trị An và Ialy thấp hơn từ 10-16 m so cùng kỳ năm 2009.
Do vậy, sản lượng thủy điện chỉ đạt 2,157 tỷ kWh, giảm 2,4% so với cùng
kỳ.
L.D. |
Bài 2:Phập phù nhiệt điện
Chiếm tỷ trọng hơn 60%, nhiệt điện
được kỳ vọng có thể bù đắp sự thiếu hụt khi thủy điện thiếu nước. Tuy nhiên,
hàng loạt nhà máy nhiệt điện đang chạy phập phù do ngừng sửa chữa, bảo trì hoặc
thiếu nguyên liệu. Một số khác phải “trùm mền” vì giá nguyên liệu cao, do đó sự
kỳ vọng vào nhiệt điện khai thác hết công suất gần như bất khả
thi!
|
Các kỹ sư đang thực hiện công
tác bảo trì tại Nhà máy Nhiệt điện Cà Mau
2. |
Một tháng chạy 20
ngày
Trong những tháng mùa khô năm 2010, khi công suất
nguồn điện trên cả nước thiếu hụt lên đến 4.000MW, Tập đoàn Điện lực Việt Nam
(EVN) phải chỉ đạo cắt giảm phụ tải nhiều khu vực, điện bị cúp liên tục. Tuy
nhiên, vào đúng thời điểm này, Nhà máy điện Cà Mau 1 với công suất 750MW phải
ngừng hoạt động mỗi tháng 10 ngày và kéo dài liên tiếp 3 tháng để bảo trì sửa
chữa, coi như nguồn tiếp ứng điện không đáng kể.
Lý giải về thời gian ngừng chạy máy vào đúng giữa
lúc “dầu sôi lửa bỏng”, Phó Tổng giám đốc Công ty Điện lực dầu khí Cà Mau Hồ
Tuấn Kiệt cho rằng, thực hiện công tác dừng máy định kỳ nhằm đảm bảo kỹ thuật
trong vận hành máy, không thể trì hoãn. Theo ông Kiệt, sau Nhà máy điện Cà Mau
1, Nhà máy điện Cà Mau 2 với công suất 750MW cũng đã dừng hoạt động để bước vào
giai đoạn bảo trì, sửa chữa từ đầu tháng 11-2010. Tùy thuộc vào kỹ thuật, thời
gian dừng máy có thể kéo dài qua năm 2011. Như vậy, sau hơn 1 năm đưa vào vận
hành, đến thời điểm này các tổ máy của Nhà máy điện Cà Mau 1, 2 bắt đầu thay
nhau “nghỉ dưỡng”!
Tình cảnh các nhà máy nhiệt điện khí dừng hoạt
động, thời gian bảo dưỡng kéo dài trong năm đã làm giảm hiệu quả phát điện. Tình trạng trên diễn ra ở nhiều nhà máy như:
Nhiệt điện 1, 2, 2.1 mở rộng, 4 với công suất hơn 2.400 MW của Công ty TNHH một
thành viên Phú Mỹ (EVN); Phú Mỹ 2.2, 3 gồm 1.500MW của BOT liên doanh Pháp, Hà
Lan, Anh tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Phó Giám đốc Nhà máy Nhiệt điện Phú Mỹ Đinh
Quốc Lâm cho biết, do đặc thù của nhà máy nhiệt điện khí, khi vận hành sử dụng
nhiệt điện đốt cao có thể vượt trên 1.300°C. Do vậy, thời gian dừng máy để bảo
trì sửa chữa mang tính bắt buộc. Như vậy, nhà máy của điện Cà Mau 2 và Nhơn
Trạch 1 mới đưa vào vận hành thương mại trên dưới 1 năm, cũng bắt buộc phải dừng
để bảo trì sửa chữa đúng chu kỳ. Các nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ vận hành đã lâu,
nay cũng “đến tuổi” đưa vào trung tu và đại tu.
Giám đốc Trung tâm Điều độ hệ thống điện miền Nam
(A2) Phạm Minh Lương nhận xét, việc cung cấp điện thời gian qua phập phù, đặc
biệt vào những tháng cao điểm mùa khô, do nhiều nhà máy nhiệt điện chỉ hoạt động
bình quân 20 ngày/tháng, thời gian còn lại phải dừng để bảo trì sửa chữa. Trong
khi đó, hàng loạt nhà máy chạy dầu như Nhà máy Nhiệt điện Thủ Đức có thời điểm
ngừng hẳn. Vì sản lượng điện dự phòng trên hệ thống không có, khi nhà máy dừng
hoạt động dẫn tới tình trạng thiếu điện ngay lập tức.
Thiếu nguyên liệu, giá thành
cao
Một thực tế khác, ngoài thời gian bảo trì sửa
chữa, nhiều nhà máy nhiệt điện chạy khí cũng phải ngừng hoạt động khá dài do
thiếu nguyên liệu; các nhà máy điện chạy dầu “ngủ đông” vì nguyên liệu giá cao.
Theo ông Hồ Tuấn Kiệt, trong năm 2010 lượng khí cấp cho Nhà máy điện Cà Mau 1, 2
chỉ đáp ứng 80%. Cụ thể, với lượng khí sử dụng hiện nay để chạy máy khoảng 6,4
triệu m3/ngày, nhưng Petronas chỉ cung cấp được 4,4 triệu m3/ngày, tức thiếu 20%
sản lượng khí, gây tổn thất sản lượng điện không nhỏ. Theo kết quả báo cáo tình
hình hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2010 của Công ty Điện lực dầu khí Cà Mau,
tổng sản lượng điện sản xuất của hai nhà máy đạt gần 9 tỷ kWh/năm. Như vậy, với
việc thiếu 20% lượng khí, nhà máy phải dừng thời gian hoạt động, dẫn đến sản
lượng sản xuất sụt giảm khoảng 1,8 tỷ kWh/năm. Nếu bước qua năm 2011, các nhà
máy Phú Mỹ, Nhơn Trạch… với công suất 4.500MW cũng rơi vào tình trạng thiếu khí,
đặc biệt, nguồn khí từ Nam Côn Sơn và Bạch Hổ cung cấp cho khu vực này liên tục
gặp sự cố như năm 2010, sẽ làm tụt giảm sản lượng điện 3 lần, gần 10 tỷ kWh,
bằng 1/3 sản lượng điện tính đến thời điểm hiện nay trong hệ thống miền Nam! “Có
thời điểm thiếu khí kéo dài, nhà máy phải chuyển đổi qua vận hành dầu. Nhưng
chạy dầu rất nguy hiểm, nguy cơ cháy nổ rất cao”, ông Kiệt cho hay. Ông Đinh
Quốc Lâm cũng đưa ra cảnh báo, với lượng khí cung cấp như hiện nay, thời gian
tới nếu một số nhà máy nhiệt điện mới đưa vào vận hành sẽ dẫn tới thiếu khí,
nhiều nhà máy phải ngừng chạy là điều khó tránh khỏi!
Trong khi đó, ông Nguyễn Duy Lăng, Trưởng phòng
Kế hoạch và Kỹ thuật Công ty TNHH NN MTV Nhiệt điện Cần Thơ viện dẫn lý do nhà
máy ngừng hoạt động vì hệ thống truyền tải tại đây “có vấn đề”. Tuy vậy, ông
cũng nhìn nhận, các tổ máy quá cũ kỹ, vận hành tốn nhiều nhiên liệu nhưng kém
hiệu quả. Tương tự, 7 tổ máy của Nhà máy Nhiệt điện Thủ Đức, gần đây mỗi năm
cũng chỉ vận hành được 500 - 600 triệu kWh. Lý do không vận hành hết công suất
vì EVN chỉ huy động vào những lúc cao điểm mùa khô. Đồng thời dầu giá cao, lỗ
nặng nên EVN hạn chế huy động các loại nhà máy này.
Như vậy, trong số các nhà máy điện chạy dầu như
Cần Thơ, Thủ Đức, Hiệp Phước… với tổng công suất khoảng 600MW nhưng mỗi năm chỉ
vận hành vài ngày và cho ra sản lượng khiêm tốn từ 50 - 70 triệu kWh/tháng. Điều
này được thể hiện khá rõ trong báo cáo thống kê tỷ trọng nguồn điện hàng ngày
của A2. Cụ thể, nhiệt điện dầu chỉ huy động ở mức 0,01% trong toàn hệ thống điện
miền Nam, tức sẽ không cung cấp được bao nhiêu cho năm 2011!
Tính đến cuối năm 2010, toàn hệ thống điện
miền Nam có hơn 30 nhà máy nhiệt điện các loại với công suất trên 6.266
MW, sản lượng bình quân trên 30 tỷ kWh/năm. Tuy nhiên, với công tác vận
hành diễn biến như trên, nguy cơ sụt giảm 1/3 sản lượng trong năm tới khó
có thể tránh khỏi. Như vậy, nguồn điện chạy dầu “trùm mền” cộng với thiếu
khí rồi dừng máy để tiểu tu, trung tu đã làm hệ thống điện miền Nam mất ít
nhất 10 tỷ kWh!
Theo tiêu chí kỹ thuật của nhà cung cấp
thiết bị, một tổ máy của Nhà máy điện Cà Mau có thời gian chạy đủ trong
8.000 giờ vận hành tương đương (EOH) phải dừng để tiểu tu 10 ngày, khi đạt
25.000 giờ vận hành tương đương, thời gian ngừng máy để trung tu 30 ngày.
Cứ vậy, nếu khi một tổ máy chạy đến 50.000 giờ vận hành, tương đương phải
dừng 50 ngày để đại tu… |
Lạc Phong - Lương Thiện
Bài 3:Nguồn cung mới, sự cố cũ
Để bù đắp sản lượng điện thiếu hụt, sự kỳ
vọng vào những dự án mới và khắc phục nhanh sự cố tại các nhà máy điện là phương
án duy nhất. Song với thực trạng “lùng nhùng” đang diễn ra trên toàn hệ thống
điện, khó có thể đạt được mục tiêu hạn chế thiếu điện trong năm
tới.
Ngắc ngoải nguồn cung
mới
|
|
Theo thống kê của Trung tâm Điều độ
hệ thống điện miền Nam (A2), tổng công suất nguồn điện trong hệ
thống điện miền Nam do đơn vị quản lý tính từ tỉnh Ninh Thuận trở
vào, trong năm 2010 ước đạt công suất 7.766MW, sản lượng đạt trên 50
tỷ kWh, chiếm hơn 50% nguồn sản lượng điện của cả nước (cả năm 2010
ước đạt 97,38 tỷ kWh). Trong đó, công suất thủy điện chiếm khoảng
1.500MW, nhiệt điện là 6.266MW, tuy nhiên lại cho sản lượng trên 20
tỷ kWh/năm, chiếm gần
50%! | |
Theo kế hoạch, cuối năm 2010 qua năm 2011, hàng loạt nhà máy
mới có công suất quy mô lớn như thủy điện Sơn La, Đồng Nai 3, 4… được đưa vào
vận hành, góp thêm vào hệ thống điện quốc gia hàng tỷ kWh. Tuy nhiên, sản lượng
điện khả dụng của những nhà máy này cung cấp được bao nhiêu còn nhờ…
trời.
Thủy điện Đồng Nai 3 (Lâm Đồng) với công suất
180MW, hoàn thành các hạng mục và bắt đầu tích nước từ giữa tháng 9-2010. Nhưng
những ngày qua, tập thể kỹ sư, cán bộ Ban Quản lý thủy điện 6 như ngồi trên lửa
vì… không có mưa. Nguyên nhân, sau hơn 2 tháng tích nước, thủy điện Đồng Nai 3
chỉ “hứng” nước được hơn 500 triệu m³ nước, còn thiếu khoảng 300 triệu m³, tức
hụt 10m so với cao trình bình thường để có thể vận hành máy. “Chúng tôi trông
chờ nước từng ngày để chuẩn bị chạy không tải nhưng với lượng nước về hồ quá
thấp nên chưa thể dự báo được gì”, Phó ban Quản lý dự án thủy điện 6 Phạm Văn
Cúc lo lắng nói.
Cùng chung thảm cảnh, thủy điện Đồng Nai 4, công
suất 340MW, dự kiến đưa vào vận hành trong năm 2011 cũng “liên lụy” theo. Lý do,
thủy điện Đồng Nai 4 nằm ở bậc thang bên dưới nên hoàn toàn phụ thuộc vào lượng
nước chạy máy từ thủy điện Đồng Nai 3 xả ra.
|
Thi công công trình thủy điện
Đồng Nai 4. |
Theo báo cáo của EVN, sau nhiều tháng “nằm vạ” do vừa đưa vào
hoạt động đã liên tục gặp sự cố, các nhà máy nhiệt điện Quảng Ninh 1, Hải Phòng
1, Sơn Động đã có thể hoạt động trở lại và hòa lưới điện quốc gia với công suất
khoảng 500MW. Đối với các nhà máy nhiệt điện than bị hư hỏng khác cũng sẽ nhanh
chóng khắc phục sự cố, đồng thời đẩy nhanh tiến độ các nhà máy đang triển khai
mới để sớm hòa lưới điện trở lại. Tuy nhiên, không thể vội mừng, bởi trên thực
tế các nhà máy nhiệt điện than hiện chiếm gần 20% sản lượng nguồn điện trên toàn
hệ thống. Thế nhưng đến thời điểm này nguồn than trong nước đang cạn kiệt, do đó
nguy cơ thiếu nguyên liệu để hoạt động cho các nhà máy nhiệt điện than đang là
bài toán nan giải.
Nguy cơ sụp đổ hệ
thống
|
|
Thủy điện Sơn La, công trình thủy
điện lớn nhất Việt Nam hiện nay, theo kế hoạch sẽ đưa tổ máy số 1 đi
vào hoạt động từ giữa tháng 12-2010, chính thức hòa điện vào mạng
lưới điện quốc gia. Trao đổi với chúng tôi, ông Nguyễn Hồng Hà,
Trưởng ban quản lý dự án Nhà máy thủy điện Sơn La cho biết, tới thời
điểm đầu tháng 12-2010, hồ thủy điện Sơn La đã tích được lượng nước
với cao trình 189m và so với mực nước chết 175m của hồ, đủ để thủy
điện Sơn La đưa vào hoạt động tổ máy số 1. Tuy nhiên, ông Hà lo ngại
đó chỉ là mực nước để thủy điện hoạt động trong những ngày đầu hoạt
động, còn về lâu dài chưa thể khẳng định được nếu tình hình vẫn cứ
khô hạn, không có mưa như hiện nay.
P.Hậu | |
Không chỉ bất cập về nguồn cung, nhìn vào thực trạng yếu kém
của hạ tầng truyền tải ngành điện càng thấy rõ việc thiếu hụt điện thêm trầm
trọng.
Từ trước đến nay với sản lượng điện chiếm trên
50% của toàn hệ thống điện quốc gia, hệ thống điện miền Nam luôn chi viện ra
miền Bắc qua đường dây 500kV gồm 2 mạch với công suất truyền tải mỗi mạch
1.000MW. Nhưng với hệ thống điện lực miền Nam đang đứng trước nguy cơ “teo” lại
do không vận hành hết công suất của các nhà máy vì thiếu nước, thiếu nguyên liệu
và “vào mùa” bảo trì sửa chữa liên tục. Do vậy, trong năm tới hệ thống điện miền
Nam phải trông chờ vào nguồn điện từ miền Trung và miền Bắc chuyển vào. Trong
đó, kỳ vọng nhiều vào những nhà máy thủy điện lớn như Sơn La, A Vương; nhiệt
điện than Quảng Ninh, Hải Phòng với công suất hàng ngàn MW. Giả sử “nhờ trời”
các nhà máy điện này đủ nguồn cung, liệu việc vận hành có thuận buồm xuôi
gió?
Chắc chắn là không! Bởi theo ông Đặng Hoàng An,
Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam, nhằm điều động sản lượng điện khi
thiếu điện giữa miền Nam và miền Bắc chỉ trông nhờ duy nhất vào đường dây 500kV.
Tuy nhiên, việc cung cấp thêm điện từ miền Bắc vào Nam và ngược lại không thể
vượt 20%, vì như thế sẽ dẫn tới rã đường dây. Điều này đã từng xảy ra một lần
tại khu vực miền Trung hồi mùa khô năm 2010. EVN đánh giá sự cố này là nghiêm
trọng gây ảnh hưởng đến cấp điện, làm mất điện tại khu vực miền Trung (khoảng
700MW) và miền Bắc (khoảng 2.000MW). Nguyên nhân, do phụ tải hai miền Nam - Bắc
mất cân đối, thiếu công suất tại chỗ, phải vận chuyển điện từ Nam ra Bắc (hoặc
có thể ngược lại) vượt quá công suất truyền tải của hệ thống 500kV. Các đường
dây khác như 220kV mua từ Trung Quốc cũng vận hành rất căng thẳng, truyền tải
công suất và điện năng cao. Do đó, trong giờ cao điểm đã xuất hiện tình trạng
sụt áp - nguy cơ gây sụp đổ hệ thống. Trước đó, vào mùa hè năm 2007, sự cố tương
tự xảy ra làm cháy trạm 500kV Đà Nẵng, tê liệt hệ thống điện miền Trung trên
diện rộng nhiều giờ liền.
Một khó khăn khác là do hạ tầng lưới điện yếu
kém. Theo Tổng Công ty Điện lực TPHCM, bước sang năm 2011, 2012 và kéo dài qua
năm 2013, mức sa thải phụ tải trên địa bàn sẽ dao động từ 300 - 400MW, đồng
nghĩa với việc mất điện trên diện rộng do hệ thống rơle điện tự nhảy khi nguồn
điện tăng quá cao, vượt quá công suất truyền tải.
Cụ thể, TPHCM sẽ rơi vào cảnh quá tải điện tại
các trạm, đường dây chính như trạm 500kV Phú Lâm, đường dây 220kV Thủ Đức - Cát
Lái, đường dây 220kV Nhà Bè - Nam Sài Gòn... Nguyên nhân chính được xác định là
hiện nay nhu cầu sử dụng điện của thành phố tăng cao trong khi các hệ thống
đường dây mới để tiếp nhận điện năng từ miền Trung, miền Bắc chuyển vào đang gặp
vướng mắc về giải phóng mặt bằng, gây ra chậm trễ thi công và khó hoàn thành
đúng thời hạn. Riêng trên địa bàn TPHCM, nhiều dự án phát triển điện theo quy
hoạch hiện đang giậm chân tại chỗ vì không giải phóng được mặt bằng như trạm
biến áp 110kV Bình Chánh, Bình Hòa, Bình Tân 3, An Hạ, Nam Sài Gòn 3, Gò Vấp,
Hóc Môn, Tân Thới Hiệp…
Sự chậm trễ trong thi công hạ tầng cũng xảy ra
tại dự án đường dây 500kV Nhà Bè - Ô Môn (đoạn Nhà Bè - Cai Lậy). Dự án này được
khởi công từ tháng 4-2006, chiều dài tuyến 6,978km, nhưng đến nay vẫn ngổn
ngang, không giải quyết được vướng mắc để đẩy nhanh tiến độ, sớm bổ sung vào hệ
thống lưới điện.
Từ viễn cảnh trên cho thấy, do bất cập trong quy
hoạch đầu tư dàn trải hệ thống nhà máy điện, đặc biệt đầu tư hệ thống truyền tải
yếu nên nếu giả sử có công suất điện đủ cung ứng cũng vẫn thiếu điện do tắc
trong hệ thống truyền tải!
Lạc Phong - Lương
Thiện