Đầu óc của những người sống cách nay nửa thế kỷ có thể nổ tung với
những ý tưởng tạo ra màn hình hiện nay, vì khi đó “màn hình” của họ là các trang
giấy hay tấm bìa đục lỗ.
“Màn hình” bằng các đèn nhấp nháy
|
Thiết bị cuối ZUSE 23 (1941) chỉ bao gồm các đèn báo để
biểu diễn đầu ra của chương trình máy tính. Nó vẫn
còn được trang bị cho các máy tính điện tử ở những năm 1950 như
máy Univac I (1951). |
Trong khi hầu hết các máy tính ra đời đầu tiên đều có một máy in kết quả ra
giấy thì thuở sơ khai của màn hình số lại bị hạn chế bởi các bóng đèn báo nhấp
nháy. Chúng là các bóng đèn chỉ thị bật hoặt tắt khi máy tính xử lý các câu lệnh
hay truy cập đến các vùng nhớ.
Bìa đục lỗ vừa là đầu ra, vừa là đầu vào
ENIAC là một trong số các máy tính điện tử đầu tiên sử dụng bìa đục
lỗ để thể hiện cho cả đầu vào lẫn đầu ra của một chương trình máy tính. Để viết
một chương trình, người vận hành máy tính sẽ soạn thảo trên một chiếc máy giống
như máy đánh chữ, mỗi câu lệnh sẽ được mã hóa bằng cách tự động đục các lỗ trên
các thẻ bằng giấy.
Sau đó, người ta sẽ thả một số lượng lớn các tấm bìa chi chít lỗ đó vào máy
tính để nó có thể đọc và thực hiện chương trình.
|
Bên trái: một nữ vận hành máy tính đang cho các tấm bìa
đục lỗ vào máy ENIAC (1947). Bên phải: Bộ lập bảng IBM 405 giúp người vận
hành tính kết quả của đầu ra. |
Phía đầu ra, kết quả cũng được mã hóa bằng việc đục lỗ các bìa và sau đó
những người vận hành sẽ giải mã nó với một thiết bị như bộ lập bảng IBM 405 (bên
phải ảnh) để đếm và in các giá trị của tấm bìa lên một băng giấy.
Băng giấy thay cho các tấm bìa đục lỗ
|
Máy in điện báo CREED 75 (1958) sử dụng băng giấy
đục lỗ thay cho các tấm bìa đục lỗ. |
Để thay thế cho các bìa đục lỗ, nhiều máy tính sau đó đã sử dụng một băng
giấy dài cũng được đục lỗ để biểu diễn cho một chương trình máy tính. Nguyên lí
không hề thay đổi, người vận hành máy tính sẽ cho chạy băng giấy qua một chiếc
máy như trong ảnh, kết quả chương trình cũng được lưu trên một băng giấy đục lỗ
và dựa trên băng giấy này, một máy đánh chữ điện tử sẽ đánh ra kết quả bằng ngôn
ngữ mà nhà lập trình dễ dàng hiểu được.
Thuở sơ khai của màn hình CRT
Các ống tia ca-tốt (CRT) xuất hiện lần đầu tiên trong máy tính lại được dùng
trong bộ nhớ chứ không phải ở bộ phận hiển thị. Không lâu sau đó, người ta đã
nhận ra rằng chúng có thể được sử dụng để hiện thị nội dung của bộ nhớ dựa trên
CRT (như hai máy tính ở bên trái).
|
Các thiết bị dùng CRT làm màn hình hiển thị đơn giản: màn
hình SWAC 1950), thiết bị cuối Ferranti Mark 1 Star (1951), SAGE
(1957) và PDP-1 (1960). |
Sau đó, các máy radar và máy hiện sóng đã được lắp vào các ống CRT để
hiện thị một màn hàn hình đồ họa đơn giản (không có màu sắc và chỉ thể hiện được
các vec-tơ), điển hình là hệ thống SAGE và PDP-1.
Máy điện báo trở thành “màn hình”
Trước khi có máy tính điện tử, từ năm 1902, các máy điện báo đánh
chữ được sử dụng để trao đổi nội dung các văn bản. Đây là dạng máy đánh chữ điện
tử có thể giao tiếp (truyền tín hiệu) với các máy khác thông qua các đường dây
điện (sau này còn qua sóng radio) và sử dụng một loại mã đặc biệt.
|
Một máy điện báo đánh chữ ASR-33 (1962) được sử
dụng làm “màn hình” máy tính. |
Cho đến những năm 1950, các kĩ sư đã nối trực tiếp máy điện báo lên máy tính
để dùng nó như một thiết bị hiển thị. Các máy điện báo sẽ in ra kết quả liên tục
của một phiên làm việc của máy tính. Đây vẫn là dạng giao điện đầu ra rẻ
nhất đối với các máy tính cho đến giữa những năm 1970.
Glass Teletype
Tại một thời điểm ở những năm 1960, các kĩ sư nhận ra rằng họ có thể sử dụng
các ống CRT để tạo thành một “tờ giấy ảo” thay cho tờ giấy thật của máy điện
báo. Glass teletype là cái tên đầu tiên cho thiết bị đầu ra dạng này.
|
Uniscope 300 (1964) và ADM-3 (1975) là các glass
teletype sử dụng CRT để hiển thị kết quả chương trình máy
tính. |
Dạng màn hình video này hiển thị nhanh và linh động hơn so với dùng giấy nên
nó đã trở thành phương pháp vượt trội để thể hiện giao diện của máy tính trong
nửa đầu những năm 1970.
Thiết bị đầu ra được nối với máy tính qua dây cáp, thường chỉ truyền các đoạn
mã biểu diễn kí tự văn bản chứ không phải đồ họa. Cho đến những năm 1980, một số
màn hình mới được hỗ trợ màu sắc.
Video phức hợp ra đời
Những chiếc máy điện báo đánh chữ (kể cả những chiếc có đầu ra là băng giấy)
cũng là cả một gia tài.
Tìm kiếm một biện pháp thay thế rẻ hơn, Don Lanscaster, Lee Felsenstein và
Steve Wozniak đã cùng lúc đưa ra một ý tưởng: xây dựng một thiết bị cuối giá rẻ
là màn hình video CCTV.
|
Các thiết bị cuối hiển thị video đầu tiên:
CT-1024 (1974) và sau đó là Sol-20 và Apple I vào năm
1976. |
Không lâu sau đó, Wozniak và Felsenstein đã lần lượt cho ra mắt các thiết bị
hiển thị đầu ra video là Apple I và Sol-20. Những chiếc máy tính đầu tiên có màn
hình video được sản xuất vào năm 1976.
Màn hình video phức hợp nở rộ
|
Màn hình video phức hợp TRS-80 (1977) và
Commodore 1702 (1983). |
Ngoài các màn hình ti-vi RF, nhiều loại máy tính cá nhân (PC) đã được hỗ trợ
các màn hình video phức hợp cho chất lượng hình ảnh cao hơn. Cuộc cách mạng PC
đem đến luồng gió mới, các nhà sản xuất máy tính như Apple, Commodore, Radio
Shack, TI đều bắt tay thiết kế và đóng nhãn các màn hình video một màu hoặc có
đa màu cho các hệ thống máy tính của mình.
Hầu hết các màn hình như vậy đều có thể thay thế hoàn toàn được cho nhau.
Ti-vi được dùng làm màn hình máy tính
Vào cuối những năm 1970, bắt đầu nảy sinh ý tưởng sử dụng chính màn hình
ti-vi làm đầu ra video cho máy tính. Một số doanh nghiệp đã mạnh dạn sản xuất
các bộ điều biến RF cho Aplle II để chuyển video phức hợp sang một dạng các tín
hiệu mà ti-vi có thể “hiểu” được.
|
Bộ điều biến RF Apple II (1977) được nối với một
chiếc ti-vi đang hiển thị kết quả chương trình. |
Hệ thống Atari 800 ra mắt năm 1979 bao gồm một bộ điều biến RF gắn trong máy
tính và một số thiết bị cần thiết khác. Tuy nhiên, băng thông cho đầu ra bị giới
hạn nên độ phân giải thấp hơn, vì vậy phần lớn máy tính vẫn tránh làm việc với
các màn hình ti-vi.
Màn hình plasma xuất hiện
Những năm 1960, công nghệ màn hình plasma bắt đầu nổi lên. Công nghệ này sử
dụng một loại khí mang điện bị giữ giữa hai tấm gương, khi một điện tích được
tạo ra tại một vị trí xác định, một vùng sáng sẽ xuất hiện.
|
Các thiết bị cuối sử dụng công nghệ plasma: PLATO
IV (1972), GRID Compass 1101 (1982) và IBM 3290
(1983). |
Một trong những thiết bị sớm nhất sử dụng màn hình plasma là PLATO IV. Đầu
tiên, các công ty như IBM hay GRID đã thử nghiệm với các màn hình tương đối nhẹ
và mỏng trên các máy tính xách tay. Công nghệ này chưa bao giờ được áp
dụng cho PC nhưng sau này nó lại xuất hiện trong các bộ ti-vi màn hình
phẳng.
Trung Hiếu (tổng hợp)
Theowww.baodatviet.vn