Nhiệt độ trong kho thường không đồng nhất, ở chỗ tường tiếp xúc trực tiếp với
nắng, ở chỗ chứa nhiều thuốc thường cao hơn. Vì vậy cần kiểm tra độ chênh lệch
nhiệt độ này (mỗi tháng hay mỗi quí) và ghi vào sổ. Có người đề nghị khi viết
SOP phải qui định rõ là yêu cầu chênh lệch nhau bao nhiêu phần trăm (?). Khó qui
định và thực hiện vì nhiệt độ kho luôn luôn bị chi phối với nhiệt độ bên ngoài
và bên trong kho; nếu qui định thì khi không đạt biết xử lý thế nào? Đúng ra
nhiệt kế theo dõi nhiệt độ kho phải đặt ở vị trí có nhiệt độ ổn định nhất trọng
kho. Căn cứ số đo trên nhiệt kế đó, căn cứ vào độ lệch nhiệt độ đã kiểm tra
trước, có thể điều chỉnh nhiệt độ kho về mức theo yêu cầu bảo quản. Thí dụ:
Nhiệt độ yêu cầu bảo quản < 30 độ. Nhiệt độ ở nơi đặt nhiệt kế theo dõi là 30
độ, nếu trước đó kiểm đã biết rõ độ chênh lệch giữa nơi đặt nhiệt kế theo dõi và
nơi khác là + 1độ thì chỉ cần dùng máy điều hòa nhiệt độ đưa nhiệt độ xuống, ở
nơi đặt nhiệt kế theo dõi đạt mức < 29 độ thì nhiệt độ chung trong kho đạt
yêu cầu < 30 độ. Chắc chắn hơn, có thể dùng chính nhiệt - ẩm kế này đi kiểm
tra ở các nơi khác.
Độ ẩm: Qui định chuẩn là < 70%. Thực hiện không khó. Trong một kho kín,
khi đưa nhiệt độ xuống thấp thì độ ẩm
cũng xuống theo. Tuy nhiên khi độ ẩm
xuống theo như vậy thì sẽ có lúc xuống dưới 40% rồi 30%. Nếu kho có chứa dược
liệu thô hay dược phẩm dạng dược liệu thô (thuốc thang đóng sẵn) hay dược phẩm
dạng dược liệu tán (gói bột tán) hoặc dược phẩm có độ ẩm
cao (viên hoàn mềm) hay ngay cả các dược phẩm hóa dược dạng bột gói hay dạng
viên dập, viên nang đóng vỉ, viên trần, đóng lọ nếu để ngoài thùng kín đều sẽ bị
khô, ảnh hưởng đến màu sắc mùi vị và cả chất lượng bên trong của dược liệu dược
phẩm. Có nhiều cách khắc phục điều này: Kho (nhất là kho nhỏ) cần có lỗ thông
khí nhỏ ở vị trí đối diện với vị trí đặt máy điều hòa nhiệt độ. Máy điều hòa
nhiệt độ khi chạy sẽ cho khởi động cả hệ thống quạt trong máy thì sẽ hút khí ẩm
(một lượng lớn) ra ngoài kho và lỗ thông khí nhỏ sẽ cho khí bên ngoài (lượng
nhỏ) vào kho nên vẫn giữ được nhiệt độ chuẩn (< 30 độ) nhưng không gây ngột
ngạt, không cho độ ẩm
xuống quá thấp. Kho của các công ty TNHH nhỏ ở trong thành phố thường khó có chỗ
hay không chú ý chừa lỗ nhỏ thông khí này nên thường ngột ngạt và độ ẩm có
khi xuống quá thấp. Trong trường hợp này nhân viên nên thực hiện việc kiểm tra
(khoảng 4 tiếng 1 lần) nếu thấy độ ẩm
xuống quá thấp thì nên mở hé cửa kho để cân bằng độ ẩm
đến mức vừa phải.
Dùng thiết bị:
Phải dùng đúng lúc cần thì mới có hiệu quả, tiết kiệm hợp lý tiền điện. Chẳng
hạn có khi bên ngoài nhiệt độ thấp nhưng độ ẩm
vẫn cao (ví dụ như ngày mưa) và lúc đó nhiệt độ trong kho cũng thường thấp,
nếu độ ẩm
trong kho cao thì chỉ cần dùng quạt thông gió đuổi khí ẩm ra ngoài rồi đóng cửa
kho lại mà không cần dùng đến máy điều hòa nhiệt độ. Ngược lại, khi nhiệt độ
trong kho cao và độ ẩm
thấp (ngày nắng rất nóng và không mưa) thì cần chạy máy điều hòa nhiệt độ nhưng
không đặt ở mức quá thấp. Chẳng hạn như nhiệt độ yêu cầu < 30 độ thì chỉ cần
đặt phòng dư < 29 độ là đủ mà không đặt < 27 độ hay < 26 độ, như vậy sẽ
đỡ tốn điện mà độ ẩm
cũng không xuống quá thấp.
Theo dõi: Chỉ qui định cần có nhiệt- ẩm kế đặt ở trong kho. Tuy nhiên cần có
nhiệt - ẩm kế đặt ở ngoài vùng kho (nơi không đặt máy điều hòa nhiệt độ) để theo
dõi nhiệt độ, độ ẩm
của môi trường, từ đó giúp ta dự đoán và xử lý nhiệt độ, độ ẩm
trong kho ngay khi cần thiết. Cũng có khi cần tránh mở kho (ví dụ những ngày mưa
dầm dề độ ẩm
trong môi trường rất cao việc mở cửa kho sẽ làm cho hơi ẩm lùa vào kho không có
lợi. Có những công ty nhỏ để có đủ diện tích chuẩn tổng cộng đôi khi phải có tới
3 - 4 phòng kho nhỏ. Mỗi phòng như vậy cần có nhiệt - ẩm kế riêng, lại thêm
nhiệt ẩm kế trên phương tiện vận chuyển nữa, nên số nhiệt - ẩm kế có tới 4 -5
cái. Qui định phải kiểm định nhiệt - ẩm kế tại các cơ sở kiểm định hợp pháp. Do
giá mỗi lần kiểm định khá cao (gần bằng giá mua mới) nên nhiều cơ sở kéo dài
thời gian kiểm định ra (có khi 2 năm mới kiểm định một lần trước khi cấp giấy
mới). Tốt hơn, những nhiệt - ẩm kế này nên cùng nhãn hiệu, mua cùng lúc cùng
nơi. Đến thời hạn kiểm định thì chỉ cần kiểm định 01 chiếc tại cơ quan kiểm định
hợp pháp sau đó dùng chiếc này để tự kiểm định các chiếc còn lại (theo cách đo
so sánh ở các mức khác nhau). Nếu chiếc nào còn tốt (trùng số đo với với chiếc
đã kiểm định tại cơ sở hợp pháp, hoặc chênh lệch không đáng kể) thì tiếp tục
dùng, nếu chiếc nào không còn tốt thì loại bỏ. Như thế sẽ tiết kiệm chi phí do
đó có điều kiện kiểm định nhiều lần hơn (có thể là 6 tháng hay 1 năm /lần) giữa
hai lần cấp phép.
Trong xây dựng GDP, GPP có những việc nhỏ, song cần chú ý các chi tiết trong
quản lý, nhận thức, dự thảo, tổ chức thực hiện, kiểm tra… thì mới giảm được chi
phí mà vẫn đáp ứng được các chỉ tiêu kỹ thuật đề ra.
DS.Hà Thủy Phước