Tại cuộc hội
thảo “Lợi ích của việc số hoá
truyền hình và tương lai băng thông rộng di động tại Việt Nam” diễn ra
vào giữa tháng Tư ở Hà Nội, ông Đoàn Quang Hoan, Cục trưởng Cục Tần số vô tuyến
điện, Bộ Thông tin - Truyền thông, khẳng định việc số hoá
truyền hình mang lại lợi ích lớn cho cả ngành
truyền hình và ngành viễn thông.
Với
truyền hình, việc ứng dụng công nghệ số cho phép phát nhiều chương trình
trên một kênh tần số mà trước đây chỉ có thể phát một chương trình
truyền hình sử dụng công nghệ tương tự (analog). Công nghệ số cũng cho
phép ngành
truyền hình cung cấp các dịch vụ có chất lượng tốt hơn. Khi tiến hành
việc sắp xếp, quy hoạch lại tần số, công nghệ này sẽ tạo ra lượng tần số vô
tuyến điện dôi dư và ngành viễn thông có thể tận dụng để cung cấp dịch vụ truy
cập băng thông rộng (truyền hình di động, Internet di động…).
Cùng chung quan điểm này, ông Lê Văn Tuấn, Trưởng Phòng Ấn định và Cấp phép,
Cục Tần số vô tuyến điện, giải thích rằng khi ứng dụng công nghệ số mà lượng
kênh không thay đổi thì phổ tần số (dải tần số) sẽ giảm đi, do đó sẽ tạo ra
lượng phổ tần số dôi dư. Trong khi đó, với sự phát triển nhanh của ngành viễn
thông, cùng với xu hướng cung cấp ngày càng nhiều các dịch vụ Internet băng
thông rộng trên điện thoại di động, nhu cầu về băng thông và phổ tần số sẽ tăng.
Khi đó có thể chuyển phần phổ tần số dôi dư từ
truyền hình sang viễn thông.
Những khó khăn ban đầu
Ông Nguyễn Mạnh Hùng, Phó tổng giám đốc Tập đoàn Viễn thông Quân đội
(Viettel), cho rằng yếu tố quyết định sự thành công của ngành viễn thông và
truyền hình là thiết bị đầu cuối. Nếu triển khai ứng dụng công nghệ số
vào ngành
truyền hình thì tại mỗi tỉnh thành, nhà cung cấp dịch vụ
truyền hình số phải lắp đặt một trạm phát sóng 12kW với giá khoảng
200.000 đô-la Mỹ, và khoản đầu tư này sẽ lên đến 100-200 triệu đô-la nếu muốn
cung cấp dịch vụ về tới các huyện.
Ngoài ra, để thu được tín hiệu
truyền hình số thì mỗi khách hàng phải bỏ ra khoảng 100 đô-la để mua bộ
giải mã tín hiệu
truyền hình số. Nếu 20 triệu hộ dân đang có ti-vi trên cả nước mua thiết
bị nói trên thì khoản đầu tư trong xã hội sẽ là 2 tỷ đô-la Mỹ.
Các nhà cung cấp dịch vụ có thể dễ dàng đầu tư trạm phát sóng, nhưng việc làm
sao để người dân bỏ tiền ra mua thiết bị là khó khăn, vì không phải ai cũng có
đủ điều kiện về kinh tế cho việc trang bị này. Để thu hút khách hàng chuyển sang
sử dụng dịch vụ
truyền hình số thì cần có sự trợ giá cho việc sắm thiết bị.
Ông Hùng đề xuất, trong trường hợp Cục Tần số vô tuyến điện có được một lượng
tần số dôi dư sau khi áp dụng công nghệ số vào ngành
truyền hình thì cục có thể bán lại tần số này cho các doanh nghiệp. Ông
ước tính với dung lượng khoảng 100MB, Viettel sẽ trả kinh phí 250 triệu đô-la.
Khoản thu này nhà nước có thể làm kinh phí trợ giá thiết bị thu tín hiệu
truyền hình số cho người dân. Khi người dân có thiết bị thì các nhà cung
cấp sẽ sẵn sàng đầu tư vào
truyền hình số.
Về phía Cục Tần số vô tuyến điện, ông Hoan cho biết cơ quan này đã từng đề
xuất với Chính phủ nên trích kinh phí từ quỹ viễn thông công ích để hỗ trợ người
dân mua thiết bị. Tại Mỹ, Chính phủ nước này đã đấu giá băng tần UHF được 19,2
tỷ đô-la và sử dụng một phần nguồn thu này để hỗ trợ cho các gia đình mua thiết
bị. Tuy nhiên, ở Việt Nam, để có thể tiến hành việc đấu giá tần số, theo ông
Hoan, phải có chính sách luật mở đường.
Mặc dù việc ứng dụng công nghệ số vào ngành
truyền hình đem lại nhiều lợi ích, song ông Hoan cho rằng việc quy hoạch
tần số không phải là việc có thể làm ngay. Bộ Thông tin - Truyền thông đang
nghiên cứu về việc này và quy hoạch lại băng tần 700MHz cho các dịch vụ tiên
tiến.
Cân bằng các lợi ích khác nhau
Ông Roberto Ercole, Giám đốc về Chính sách đối với băng tần, Hiệp hội GSM,
cho rằng ứng dụng công nghệ số vào ngành
truyền hình có thể không dễ dàng. Tần số là tài nguyên hiếm hoi, cần
được cân đối và phân bổ công bằng giữa nhiều lợi ích khác nhau. Vấn đề này liên
quan đến sự phát triển kinh tế nên cần làm sao để sử dụng hữu hiệu tần số. Việt
Nam cần xem xét tần số là tài sản quý giá, phải khai thác có hiệu quả để tạo
nguồn thu cho ngân sách quốc gia.
Hơn nữa, việc sử dụng tần số có hiệu quả mang lại lợi ích không chỉ cho nhà
nước, doanh nghiệp mà còn cho người sử dụng. Ngoài ra, cần chú ý để tránh lãng
phí và cần tái sử dụng băng tần để đem lại hiệu quả kinh tế. Tiết kiệm tần số
không chỉ là vấn đề tiền bạc mà còn là vấn đề lợi ích xã hội. Việc chuyển tần số
dôi dư từ ngành
truyền hình sang ngành viễn thông sẽ đem lại nhiều lợi ích.
Ông Ercole nói thêm rằng hiện phần lớn người dân Việt Nam đang sử dụng công
nghệ GSM – công nghệ mà có thể tận dụng được băng tần dôi dư của ngành
truyền hình. Do đó, cần đồng bộ hoá tần số giữa hai ngành
truyền hình và viễn thông.
Băng tần UHF mà ngành
truyền hình đang sử dụng (tần số thấp) sẽ cho phép phủ sóng rộng hơn
băng tần cao và cần ít trạm thu - phát sóng hơn, như vậy, sẽ giúp các doanh
nghiệp viễn thông tiết kiệm chi phí khi tái sử dụng băng tần này. Đây cũng là
băng tần tiện dụng ở khu vực nông thôn. Điều này rất có ý nghĩa với một quốc gia
có đông dân sống ở nông thôn như Việt Nam.
Internet băng thông rộng di động góp phần phát triển kinh
tế
Ông Roberto Ercole, Giám đốc về Chính sách đối với băng tần của Hiệp
hội GSM, nhận định thời gian tới số người sử dụng Internet băng thông rộng
di động (Internet qua điện thoại di động) sẽ lớn hơn số người sử dụng
Internet băng thông rộng cố định (ADSL). Tỷ lệ truy cập Internet băng
thông rộng di động ngày càng cao dự báo sẽ trở thành một dịch vụ chiếm ưu
thế trong tương lai. Bên cạnh đó, sự đóng góp của dịch vụ dữ liệu di
động đối với sự phát triển của kinh tế rất lớn. Ông Đoàn Quang Hoan, Cục
trưởng Cục Tần số vô tuyến điện, Bộ Thông tin - Truyền thông, cho biết
theo số liệu mà Ngân hàng Thế giới công bố vào năm 2009, cứ mức tăng
trưởng 10% của dữ liệu băng thông rộng sẽ tương đương với mức tăng trưởng
1,21% của GDP ở các nước phát triển và 1,35% ở các nước đang phát triển.
Do đó, để nhà cung cấp đáp ứng được nhu cầu truy cập Internet băng thông
rộng di động trong tương lai, các nhà quản lý và xây dựng chính sách đang
tìm kiếm và quy hoạch tần số cho việc cung cấp dịch vụ
này. |